Lạy chấp hai tay ấn tý tả thuộc dương,hữu thuộc âm.Ấn Tý đó là chỉ: Thiên khai ư tý,Trời mở nơi đầu hội tý,Sách gọi: vô danh Thiên-Địa chi thỉ,là trước chưa có Trời,Đất gọi là "hư không nhứt khí".Còn tay mặt thuộc phía âm,ắp ngoài bàn tay trái,là âm dương bào ắp,Khí âm ở ngoài,khí dương ở trong,âm dương lưỡng hiệp kêu Kiền Khôn Định Vị,Còn ngón cái tay phải chỉ ngôi Dần bên tay trái,tay âm chỉ qua tay dương là dấu tỏ:"nhơn sanh ư dần" Dương trung hữu chơn âm,trong bàn tay dương,có ngón phía âm ẩn trong,nên người bẩm khí âm dương mà sanh,mới có hậu thiên hình nhất.
Bởi Nhứt-kỳ Phổ-độ sơ Long-Hoa hội.
Thái-Thượng lập đạo dạy cách lạy hai bàn tay chấp nắm co lại,như cái bông búp.
Qua Nhị-kỳ Phổ- độ nhị Long-Hoa hội.
Thích-Ca lập đạo dạy cách lạy,hai bàn tay sè ra nhập sát lại một,như bông nở.
Nay đến Tam-kỳ Phổ-độ Long-Hoa hội
Đức Chí-Tôn lập đạo dạy cách lạy chấp tay ấn tý,kiết quả lại như trái cây có hột,kêu là kiết quả thâu viên,độ tận chúng sanh trở về cựu vị (ngôi cũ) là hạ ngươn thâu viên kiết quả,Tam-Kỳ Phổ-Độ,Tam-giáo qui nguyên phục nhứt.
Trước khi vào lạy đứng ngay thẳng rồi xá ba xá, chỉ tỏ dấu thành kỉnh,tam dương khai thời,đạo lập lần thứ ba cho hiệp chơn lý.Khi chấp tay đưa lên trán, chỉ dấu Kỉnh Thiên.xá xuống chí gối, chỉ dấu Kỉnh Địa. đem về để ngay ngực, chỉ dấu Kỉnh Nhơn.Cũng đều gôm lại Tâm mà thành Kỉnh Đức Chí-Tôn (2).Nên lạy cũng cho phù hợp theo ngươn hội mới nhằm đạo,nên cách lạy phải như thế vậy.
(2) Chú thích : Khi quì lấy dấu niệm:Phật,Pháp,Tăng;Phật là Thần,Pháp là Khí,Tăng là Tinh: dấu niệm Thần là Trời,niệm Khí là Đất,niệm Tinh là Người,nên bên Thánh Giáo lấy dấu :Nhơn danh Cha và Con và Thánh Thần,cũng là ba ngôi vậy.
Trích quyển : Giảng đạo yếu ngôn
Tác giã : nguyễn-văn-kinh
Thứ Ba, 15 tháng 2, 2011
Nguồn-Cội loài người do nơi đâu mà ra ?
-Nguồn cội của loài người do tự nơi đâu mà có, thì người có học cũng biết rằng:
-Từ khi chưa có Trời Đất,thì chưa có chi trong Càn Khôn Thế giới này,duy có một khí Hư-Vô mà thôi.(Khí Hư-Vô là khí thanh nhẹ không cùng tột,nơi trong không - khí).Khí ấy mới sinh ra Thái-Cực là chúa của Càn Khôn.Thái-Cực biến sanh Lưỡng-Nghi,Lương-Nghi biến sanh Tứ-Tượng,Tứ-Tượng biến sanh Bát- Quái ,đến vật chất(là thứ có hình dạng khối chất).Từ trong Vật-Chất mà biến sanh dần ra Thảo-Mộc (loại cây cỏ),Thảo-Mộc chuyển biến sanh lần lên Thú-Cầm,Thú-Cầm chuyển kiếp lần đến Loài Người,thì Loài người cũng phải chịu chuyển kiếp lẫn lộn trong vật chất,thảo-mộc,thú-cầm ngàn muôn kiếp mới đến loài người.Loài người biết Tu-Hành làm âm chất mà chuộc tội và luyện tập Tánh-Linh thì chuyển lên Thần,Thánh,Tiên,Phật,trở về khí Hư-Vô.Như kiếp tu-hành ít thì linh-hồn tiến lên ít.Còn Tu-hành nhiue62 âm chất,luyện bỏ đặng tánh phàm thì thành trong một kiếp...Nếu còn tham dọc-vọng mê trần,không lo cho Linh-hồn tiến hoá chuyển lên,thì phải trở lại lẫn lộn theo vật-chất nữa,kêu là chuyển kiếp luân-hồi,thay hồn đổi xác,từ vật-chất lên thảo-mộc,thú-cầm đến loài người,thì tôi lấy sự thấy trước mắt chỉ chút ít cho Hiền rõ.
-Như lá chanh hoá thành con Dọt-Sành,rể Lăng hoá thành Lươn,con Tằm chuyển sanh con Nhộng.Nhộng chuyển Bướm.Cỏ hoá sanh thành Cá,Con chuột hoá thành Dơi,Dơi thành Chim,Lươn đổi lốt thành Chồn,Cá hoá Long,Sấu hoá Cù.
-Nên loài người vẫn trong đó mà Tiến-Hoá chuyển dần lên.Các loại hoá sanh do sự chuyển kiếp như vậy mà tuần tự tiến-hoá đến kiếp con người.Người Tu-Hành tiến lên địa vị Thần,Thánh,Tiên,Phật,nên Phật có lời "Cả thảy chúng sanh đều : có Phật Tánh" còn Nho rằng :Nhơn Nhơn Thiên phú sở Tánh ; nghĩa là mỗi người đều có tánh Trời cho.
-Vậy nguồn cội loài người do nơi Vô Thỉ Không-Khí chuyển kiếp tiến-hoá theo như thế đó.
Trích quyển : Giảng đạo yếu ngôn
Tác giã : nguyễn-văn-kinh
-Từ khi chưa có Trời Đất,thì chưa có chi trong Càn Khôn Thế giới này,duy có một khí Hư-Vô mà thôi.(Khí Hư-Vô là khí thanh nhẹ không cùng tột,nơi trong không - khí).Khí ấy mới sinh ra Thái-Cực là chúa của Càn Khôn.Thái-Cực biến sanh Lưỡng-Nghi,Lương-Nghi biến sanh Tứ-Tượng,Tứ-Tượng biến sanh Bát- Quái ,đến vật chất(là thứ có hình dạng khối chất).Từ trong Vật-Chất mà biến sanh dần ra Thảo-Mộc (loại cây cỏ),Thảo-Mộc chuyển biến sanh lần lên Thú-Cầm,Thú-Cầm chuyển kiếp lần đến Loài Người,thì Loài người cũng phải chịu chuyển kiếp lẫn lộn trong vật chất,thảo-mộc,thú-cầm ngàn muôn kiếp mới đến loài người.Loài người biết Tu-Hành làm âm chất mà chuộc tội và luyện tập Tánh-Linh thì chuyển lên Thần,Thánh,Tiên,Phật,trở về khí Hư-Vô.Như kiếp tu-hành ít thì linh-hồn tiến lên ít.Còn Tu-hành nhiue62 âm chất,luyện bỏ đặng tánh phàm thì thành trong một kiếp...Nếu còn tham dọc-vọng mê trần,không lo cho Linh-hồn tiến hoá chuyển lên,thì phải trở lại lẫn lộn theo vật-chất nữa,kêu là chuyển kiếp luân-hồi,thay hồn đổi xác,từ vật-chất lên thảo-mộc,thú-cầm đến loài người,thì tôi lấy sự thấy trước mắt chỉ chút ít cho Hiền rõ.
-Như lá chanh hoá thành con Dọt-Sành,rể Lăng hoá thành Lươn,con Tằm chuyển sanh con Nhộng.Nhộng chuyển Bướm.Cỏ hoá sanh thành Cá,Con chuột hoá thành Dơi,Dơi thành Chim,Lươn đổi lốt thành Chồn,Cá hoá Long,Sấu hoá Cù.
-Nên loài người vẫn trong đó mà Tiến-Hoá chuyển dần lên.Các loại hoá sanh do sự chuyển kiếp như vậy mà tuần tự tiến-hoá đến kiếp con người.Người Tu-Hành tiến lên địa vị Thần,Thánh,Tiên,Phật,nên Phật có lời "Cả thảy chúng sanh đều : có Phật Tánh" còn Nho rằng :Nhơn Nhơn Thiên phú sở Tánh ; nghĩa là mỗi người đều có tánh Trời cho.
-Vậy nguồn cội loài người do nơi Vô Thỉ Không-Khí chuyển kiếp tiến-hoá theo như thế đó.
Trích quyển : Giảng đạo yếu ngôn
Tác giã : nguyễn-văn-kinh
Câu niệm Nam-mô Cao-Đài Tiên-ông Đại-bồ-tát Ma-ha-tát là chủ ý gì ?
Câu niệm Nam-mô Cao-Đài Tiên-ông Đại-bồ-tát Ma-ha-tát là chủ ý gì ?
Chủ ý vì mỗi khi lập Đạo phải lấy Thánh Danh khác mà khai Đạo cho có danh hiệu.
Nhưng trong Thánh hiệu lại co1l ý đạo.Như niệm hai chữ Nam-Mô,là Tâm không tưởng chi cả,để không cho thanh bạch đặng niệm Thánh hiệu Đức Chí-Tôn.
Còn chữ "Cao-Đài" trong đạo thơ rằng : Thượng Đế viết "Cao-Đài",viết Linh-Đài,hai chữ Cao-Đài chỉ phần Nho-Giáo,Tiên-Ông chỉ về Tiên-Giáo .Đại-bồ-tát Ma-ha-tát chỉ về Phật giáo.Vậy nên kêu là Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ độ tam giáo qui nguyên.
Nên mỗi thời kỳ Thượng-Đế lập đạo hay là Tiên,Phật cũng mượn Thánh Danh khác, như Trời Khai Đạo khi trước
Hoặc xưng : Diêu-Trì Kim-Mẫu vô cực Thiên-Tôn
Hồng-Quân Lão-Tổ Thánh-Mẫu từ tôn
Thiên Địa Lão gia
Huyền khung Cao-Thượng-Đế
Ngọc-Hoàng Đại-Thiên-Tôn
Nên lập đạo mỗi kỳ thành danh đều khác,cho phù hiệp ngươn-hội của Đạo,câu niệm chủ ý là vậy.
Trích quyển : Giảng đạo yếu ngôn
Tác giã : nguyễn-văn-kinh
Chủ ý vì mỗi khi lập Đạo phải lấy Thánh Danh khác mà khai Đạo cho có danh hiệu.
Nhưng trong Thánh hiệu lại co1l ý đạo.Như niệm hai chữ Nam-Mô,là Tâm không tưởng chi cả,để không cho thanh bạch đặng niệm Thánh hiệu Đức Chí-Tôn.
Còn chữ "Cao-Đài" trong đạo thơ rằng : Thượng Đế viết "Cao-Đài",viết Linh-Đài,hai chữ Cao-Đài chỉ phần Nho-Giáo,Tiên-Ông chỉ về Tiên-Giáo .Đại-bồ-tát Ma-ha-tát chỉ về Phật giáo.Vậy nên kêu là Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ độ tam giáo qui nguyên.
Nên mỗi thời kỳ Thượng-Đế lập đạo hay là Tiên,Phật cũng mượn Thánh Danh khác, như Trời Khai Đạo khi trước
Hoặc xưng : Diêu-Trì Kim-Mẫu vô cực Thiên-Tôn
Hồng-Quân Lão-Tổ Thánh-Mẫu từ tôn
Thiên Địa Lão gia
Huyền khung Cao-Thượng-Đế
Ngọc-Hoàng Đại-Thiên-Tôn
Nên lập đạo mỗi kỳ thành danh đều khác,cho phù hiệp ngươn-hội của Đạo,câu niệm chủ ý là vậy.
Trích quyển : Giảng đạo yếu ngôn
Tác giã : nguyễn-văn-kinh
Đạo phải giữ Trai Giới,Trai là gì,giới là gì ?
Vào Đạo phải giữ Trai Giới,Trai là gì,giới là gì ?
Trai nghĩa là chay lạt,đồ trong sạch nhẹ nhàng tinh-khiết.
Giới là điều cấm răn của đạo .Trai là chay,nếu ăn chay thì tâm tánh phải hiền lành lánh điều tội lỗi,giảm tánh hung hăng,đổi lần hoạ ra phước,bỏ dữ về lành.
1- là chẳng giết hại loài bò bay máy cựa
2- là tránh nợ oan báo,linh hồn đặng trong sạch nhẹ nhàng.
3- là lòng nhơn,biết thương người mến vật
Đó là giữ trai giới.nên có câu rằng :
" Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử" Nghĩa là :"Phật thương loài chúng sanh như mẹ thương con vậy".
Và có câu rằng : " Nhứt tử trì trai thiên Phật hĩ " nghĩa là : " Một người ăn chay đặng thì ngàn muôn Phật thảy đều vui lòng mừng đó "
trích : Giảng đạo yếu ngôn
Trai nghĩa là chay lạt,đồ trong sạch nhẹ nhàng tinh-khiết.
Giới là điều cấm răn của đạo .Trai là chay,nếu ăn chay thì tâm tánh phải hiền lành lánh điều tội lỗi,giảm tánh hung hăng,đổi lần hoạ ra phước,bỏ dữ về lành.
1- là chẳng giết hại loài bò bay máy cựa
2- là tránh nợ oan báo,linh hồn đặng trong sạch nhẹ nhàng.
3- là lòng nhơn,biết thương người mến vật
Đó là giữ trai giới.nên có câu rằng :
" Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử" Nghĩa là :"Phật thương loài chúng sanh như mẹ thương con vậy".
Và có câu rằng : " Nhứt tử trì trai thiên Phật hĩ " nghĩa là : " Một người ăn chay đặng thì ngàn muôn Phật thảy đều vui lòng mừng đó "
trích : Giảng đạo yếu ngôn
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)